3. Đi tìm giải pháp...
Từ
một số khảo sát trênđây, chúng tôi cho rằng hiện nay chúng ta cần đặt định rõ
hướng đi trong hiện tại và tương lai. Phảicụ
thể hóa mọi khái niệm
và hành động. Những chuyện "sợi tóc chẻ làm tư" thường làm cho nhiều
người khó chịu song khoa học là như thế. Đã đến lúc phải nói và làm cái chuyện
"thà muộn còn hơn không"!
-Vấn đề thứ nhất: Trước hết chúng ta
cần xác định rõ bảo tồn vốn có nghĩa là giữ lại không để cho mất đi(2)nên
tính nguyên vẹn của đối tượng cần được đặt lên hàng
đầu. Do đó, việc bảo tồn các giá trị cổ nhạc trong xã hội Việt Nam đương đại
nhất thiết phải quán triệt theo nguyên tắc bảo
tồn nguyên vẹn. Việc cải biên, cải tiến đối tượng theo cái gọi là
"góc nhìn thời đại" thì sẽ không còn là bảo tồn nữa.
Vấn đề đặt ra chỉ còn là thế nào lànguyên
vẹn? Và, phương pháp bảo tồn như thế nào?
Về
tính nguyên vẹn của đối tượng, chúng ta cần căn cứ
chặt chẽ vào hệ thống tư liệu vang và các nghệ nhân đầu ngành. Từ đó xác định
rõ những quy chuẩn cổ điển nhất mà chúng tacó thể ghi nhận được. Điều này đặc biệt quan trọng bởi nó sẽ
chi phối các biện pháp bảo tồn của chúng ta. ở đây, chúng tôi rất tâm đắc với
quan điểm của GS - TSKH Tô Ngọc Thanh rằng: "Không thể cải tiến vốn văn hóa cổ truyền mà không làm biến đổi nó thành
một thứ khác”(3). Trên luận điểm đó, ông đã phê phán mọi
hành động "cải biên, cải tiến và nâng cao" các giá trị nghệ thuật cổ
truyền. Một luận điểm mà cho đến nay vẫn có rất nhiều người phê phán là
"cực đoan" và "đi ngược lại với quy luật phát triển". Cho
dù họ cũng biết rằng chúng ta đã để mất mát quá nhiều các giá trị nghệ thuật cổ
truyền. Đây chính là nguyên nhân mà từ năm 1997, Bộ Văn hóa - Thông tin đưa
nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa phi vật thể lên
thành Mục tiêu IV trong Chương trình văn hóa quốc gia. Do đó, chúng ta nên đặt
địnhbảo tồn như một nhiệm vụ chuyên biệt, vừa nằm
ngoài vừa nằm trong động thái phát triển chung của văn hóa - nghệ thuật.
Cụ
thể, trong hệ thống giáo dục và đào tạo, việc dạy
và học cổ nhạc phải
được thể chế hóa để việc lưu truyền các giá trị không bị đứt đoạn theo thời
gian. Cổ nhạc cần được đưa vào chương trình giáo dục bắt buộc một cách có hệ
thống từ các trường phổ thông đến các trường đại học. Cần tạo dựng những nhà
hát, những trung tâm kiểu mẫu (tức chỉ có một nhiệm vụ duy nhất) chuyên biểu
diễn và quảng bá từng thể loại nghệ thuật cổ truyền. ở những nơi đó, ngoài âm
nhạc, mọi thành tố khác của nghệ thuật trình diễn như không gian mỹ thuật,
trang phục, ánh sáng, vị trí của người biểu diễn và khán giả... cũng cần được
phục hưng toàn diện và triệt để. Điều đó sẽ tạo ra cái mà chúng ta thường gọi
là không gian văn hóacủa từng
thể loại. Trong giáo dục và đào tạo, cần khai thác triệt để những nghệ nhân
giỏi với chế độ đãi ngộ xứng đáng để tránh tình trạng dấu nghề. Bên cạnh đó, ưu
tiên đặc biệt cho những sinh viên tài năng, nhanh chóng tạo dựng đội ngũ nghệ
nhân kế cận. Trong trường nhạc quốc gia, lớp cổ nhạc cần được đào tạo theo mô
hình chuyên biệt. Các sinh viên đến đó chỉ chuyên tâm học cổ nhạc mà không phải
học những môn kiến thức khác. Cách đào tạo
mũi nhọn kiểu như vậy
chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao. Hơn nữa, nó còn giảm thiểu tối đa thời gian
và kinh phí đào tạo. Về phương pháp truyền dạy, cần coi trọng và duy trì phương pháp truyền khẩu, truyền ngón nghề trực tiếp.
Nên bỏ hệ thống ký tự:đo, re, mi... (kiểu Tây) như đã dùng mấy chục năm qua.
Riêng đối với Tuồng, Tài tử - Cải lương, Cung đình Huế, Thính phòng Huế là các
thể loại có hệ thống văn bản với ký tự: Hò, Xự, Xang... (kiểu ta) thì nên bảo
lưu, trong đó viết bằng chữ Nôm thì càng tốt. Ngoài vấn đề bảo tồn, ở đây chúng
tôi còn nhận thấy tính ưu việt của phương thức dạy học cổ truyền. ở đó, lòng bản chỉ là một thứ xương cốt để nghệ nhân
dựa vào đó mà ứng tấu. Với phương thức này (thậm chí không cần bản nhạc), ngườitrò có
thể giành hầu như toàn bộ tâm lực để cảm nhận, nắm bắt trực tiếp mọi sắc thái
tinh tế của tác phẩm qua người thầy,
từ thang âm, phương thức vận hành giai điệu, phương pháp trang điểm các chữ đàn
cho đến bước đi của nhịp điệu v.v… Theo đó, khả năng ngẫu hứng củathầy cũng
dần được chuyển giao. Và, một nghệ nhân cổ
nhạc thực thụ sẽ được
sinh ra với đầy đủ chức năng vốn có (nhạc công + nhạc sĩ sáng tác tại chỗ). Với
bản nhạc trên năm dòng kẻ kiểu Tây, ngườitrò tất nhiên bị lệ thuộc vào các ký tự
cao độ, trường độ cố định như do, re, mi, thăng, giáng, đen,
trắng, móc đơn, móc kép, chấm dôi... Họ không thể giành toàn bộ tâm lực tiếp
thu các sắc thái tinh tế của tác phẩm từ ngườithầy - những
sắc thái mà không thể ký hiệu hóa chính xác được trên bản nhạc. Sự bó buộc đó
tất yếu sẽ làm triệt tiêu tính ngẫu hứng tại chỗ. Và, chúng ta sẽ chỉ đào tạo
được những nhạc côngthuần tuý
theo đúng với nghĩa của nó. Họ hầu như khó có cơ may trở thành một nghệ nhân cổ nhạc thực thụ. Ngoài ra, khi học bằng bản
nhạc kiểu Tây, sự ám ảnh của thang âm bình quân với hệ thống dấu hóa của nó ít
nhiều cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự cảm nhận của ngườitrò. Nó dễ tạo ra sự hiểu sai cổ truyền.
Bởi thế, chỉ nên áp dụng duy nhất phương thức giảng dạy cổ truyền - một phương
thức vẫn hữu dụng từ ngàn đời nay. Cũng qua đây xin nói thêm rằng trong năm
2002, người Nhật đã áp dụng phương thức này để dậy thực nghiệm nhạc cổ điển
châu Âu cho trẻ em. Kết quả khả quan cho thấy việc học trực tiếp (không thông
qua văn bản) không những rút ngắn thời gian truyền thụ mà còn giúp nhạc công
diễn tấu truyền cảm hơn. Làm được những điều đó, chúng ta sẽ nối mạch được
truyền thống dạy và học cổ nhạc trong thời đương đại. Ngoài ra, vấn đề biên chế
dàn nhạc cũng cần được tôn trọng trong từng loại hình cụ thể. Hết sức tránh áp
đặt các mô hình ngoại lai. Ở đây, cần hiểu rằng sự độc đáo là mục
đích tôn chỉ chứ không phải sự phát triển
thời đại. Trong phân nửa thế kỷ XX, việc "giao hưởng hóa"
các dàn nhạc cổ nhạc với mô hình tổ bộ kèm theo phong trào cải tiến nhạc khí
theo Tây phương là một bài học đắt giá của chúng ta.
Mặt
khác, trên các phương tiện truyền thông đại chúng như đài phát thanh, truyền
hình, cần tăng cường hơn nữa thời lượng phát sóng những chương trình chuyên
biệt từng thể loại cổ nhạc nguyên bản (không cải biên). Theo điều tra sơ bộ,
việc phát sóng cổ nhạc trong nhiều năm qua luôn chỉ có thời lượng rất thấp, nó
không hề tương xứng với một kho tàng đồ sộ như âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Mặt
khác, các tác phẩm được trình bày đều có sự "cải biên cải tiến" ít
nhiều. Điều đó cũng cho ta thấy rõ quan niệm "hiện đại hoá" ăn sâu
đến như thế nào vào cả những nhà sản xuất chương trình. Sự lay lắt và biến dạng
của cổ nhạc trên sóng phát thanh truyền hình đã minh chứng cho điều đó. Chẳng
hạn, trong suốt thời gian qua, chúng ta hầu như chỉ được xem (hoặc nghe) Quan
họ cải biên với dàn nhạc đệm "xập xình". Nếu chúng tôi không lầm thì
Quan họ cổ (không có nhạc cụ đệm) chỉ được phát sóng một vài lần mà thôi. Thi
thoảng có một bộ phim tài liệu về cổ nhạc thì tiếng nhạc nguyên bản lại bị đè
lấp bởi cái gọi là "lời bình" của biên tập viên. Ở đây, chúng tôi
muốn nhấn mạnh đến cơ hội hưởng thụ của khán giả với thế mạnh vượt trội của phương tiện truyền thông đại chúng
trong việc quảng bá các giá trị nghệ thuật. Nhất là âm nhạc của các tộc người
thiểu số, những nơi mà người bình thường có lẽ cả đời cũng không có cơ hội tiếp
cận. Đã đến lúc các "nhà đài" cần xem lại vấn đề chức năng giáo dục của hệ thống truyền thông đại chúng.
Xin hãy giành cho khán giả một cơ hội! Các giá trị nghệ thuật cổ truyền cần
được giữ gìn nguyên trạng, không lai tạp và cần được quảng bá. Đó là nhiệm vụ bảo tồn. Nếu chúng ta
không thích thì hãy làm vì phương châm gìn
giữ cho muôn đời sau!
-Vấn đề thứ hai: Phát triển vốn có
nghĩa là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ
ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp(4).
Như thế, phải nhận thức rõ phát triển là sự thay đổi về lượng hoặc chất theo hướng tích cực.
Ở
hướng phát triển về lượng,
vấn đề trở nên khá đơn giản bởi khi đó động thái phát triển đồng
nghĩa với việcbảo tồn trên diện rộng (tức sự phát huy các giá trị cổ truyền). Điều đó có
nghĩa là nếu chúng ta nhân rộng các nhóm hay đoàn nghệ thuật cổ truyền (đích
thực) thì đó vừa là sự phát triển các giá trị cổ truyền về lượng đồng thời là sự phát huy các giá trị đó. Ví dụ, nếu tạo lập
được vài chục nhóm hát Ca trù thì cũng có nghĩa là chúng ta bước đầu đãbảo tồn và phát huy được môn nghệ thuật này. Vấn đề chỉ
còn phụ thuộc vào trữ lượng các giá trị cổ truyền nguyên bản trong đó mà thôi.
Có
lẽ chính vì sự phát triển về lượng đồng nghĩa với việc bảo tồn nên bấy
lâu nay, chúng ta chủ yếu vẫn hiểu khái niệm phát
triển theo hướng biến
đổi về chất. Điều này
cũng dễ hiểu bởi đây là hướng đi cho sự sáng tạo những giá trị mới. Thế nhưng
cần phải thấy rằng trong sự phát triển - biến đổi về chất, mọi chuyện thật ra rất phức
tạp. Chẳng hạn với cùng một sự biến đổi của một giá trị nghệ thuật nào đó, sẽ
có hai cách hiểu khác nhau. Một cách gọi đó là sựphát triển vì
cho là các giá trị được biến đổi theo hướng tích
cực. Ngược lại, một cách lại gọi đó là sự thoái hóa vì cho là các giá trị bị biến đổi theo
hướng tiêu cực (tức mất dần đi những phẩm chất tốt).
Tuồng cải biên, Chèo cải tiến, dàn nhạc dân tộc "hiện đại"... là
những ví dụ điển hình gây nhiều sự tranh cãi trong suốt mấy chục năm qua.
Vậy,
thế nào là tích cực và tiêu
cực? Đó là vấn đề chưa được thống nhất trong thực tiễn. Nó vốn là
chuyện đau đầu của các nhà hoạt động nghệ thuật dân tộc trong suốt mấy chục năm
qua khi mà "công cuộc phát triển" các giá trị văn hóa nghệ thuật cổ
truyền luôn được đặt định như một nhiệm vụ hàng đầu. Liệu chúng ta có thể xác lập
được một hệ quy chuẩn?
Như
đã trình bày về quy luật vận động sáng tạo các giá trị nghệ thuật trong cổ
truyền. ở đó, nghệ nhân nhà nghề chính là chủ thể sáng tạo. Bởi thế những sự biến đổi, sáng tạo của họ
luôn đảm bảo phong cách nghệ thuật đặc trưng của từng thể loại. Nói nôm na là
phải làm sao cho Chèo vẫn là Chèo, Tuồng vẫn là Tuồng... thì mới đúng! Đánh giá
sự biến đổi đó tích cực hay không, đó là điều chúng tôi không
lạm bàn. Chỉ biết rằng đó là chuẩn mực trong
sự vận động sáng tạo của cổ truyền. Như thế, nếu muốn nối mạch truyền thống phát triểncủa cha ông, người
tham gia sáng tạo nhất thiết phải có một trình độ nhà nghề về từng thể loại.
Mặt khác, cần phải thấy rằng trong thực tế, mọi sự vận động sáng tạo không hẳn sẽ có nghĩa làbất tận (tức
cái gì cũng phải biến đổi liên tục). Chúng tôi muốn nói đến một căn bệnh rất
phổ biến trong giới những người hoạt động văn hóa nghệ thuật Việt Nam (kể cả
các nhà nghiên cứu) - tạm gọi là bệnh lý
thuyết vĩ mô. Đó
là sự áp đặt vào văn hóa nghệ thuật quy luật
đào thải theo thuyết
tiến hóa. Rất nhiều người trong chúng ta thường lập luận rằng "văn hóa
phải phát triển" rồi từ đó khẳng định các giá trị nghệ thuật cổ truyền
cũng phải "phát triển không ngừng". Trong mọi trạng huống, lập luận
đó luôn được sử dụng như một con "dao pha lý luận" để hành xử văn hóa
nghệ thuật dân tộc. Điều này phần nào lý giải hiện tượng trong xã hội ta, người
hô hào "bảo tồn" nghệ thuật cổ truyền thì rất ít, còn người hô hào
"phát triển, cải biên, cải tiến, hiện đại hóa" thì nhiều vô kể. Trong
gần 50 năm qua, chúng ta nhân danh cái gì để "đào thải" các tinh hoa
nghệ thuật của cha ông? "Thời đại" ư? "Thời đại" là chính
chúng ta đó chứ không phải ai khác. Cần hiểu rằng "thời đại" không
phải là cái tất yếu siêu hình. Một "thời đại" như thế nào hoàn toàn
tùy thuộc vào bản ngã và tri
thức của chúng ta. Ở
đây, thật ra người ta mới chỉ nhìn vào quy luật phát triển chung trên toàn bộ
chứ không hiểu những quy luật riêng nội tại trong từng phần các thành tố văn
hóa, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật. Cách suy diễn đó chắc chắn sẽ dẫn
đến những nhận thức sai lệch. Bởi trong quá trình vận động phát triển nghệ
thuật của mỗi dân tộc, tất sẽ có các giá trị được trau chuốt đến mức hoàn chỉnh
- cái mà chúng ta thường gọi là sự định hình - tức không thể biến đổi nữa. Một dung
lượng lớn hệ thống các giá trị định hình nghiễm nhiên được coi là giá trị cổ điển của mỗi truyền thống nghệ thuật dân
tộc.
Có
thể gọi đó là tính hữu hạn của sự phát triển. Trong cổ truyền,
ông cha ta đã tạo dựng được cả một kho tàng các giá trị định hình trong những chủng loại nghệ thuật định hình. Đó là một kỳ tích vĩ đại trong
lịch sử phát triển văn hóa nghệ thuật dân tộc. Sở dĩ cổ nhân làm được điều đó
bởisự vận động sáng tạo được hiểu theo cái nghĩa là "để
thêm vào" chứ không phải là kiểu "loại bỏ, làm mới" như chúng ta
vẫn thực hành suốt mấy chục năm qua.
Trong
nửa cuối thế kỷ XX, các khái niệm quy chuẩn cho việc phát triển kiểu "cải
biên, cải tiến" nhưbỏ thô - lấy tinh,
gạn đục - khơi trong, lạc hậu - hiện đại,rồi khoa học hóa, thời đại hóa... đều là những khái niệm định
tính trừu tượng. Việc nhận thức và thực thi như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào
vốn tri thức của từng "nhà cải tiến". Mạnh ai nấy làm, thành thử cùng
một hiện tượng, người này gọi là bảo tồn,
là phát triển nhưng người kia lại gọi là phá hoại. Nó cũng giống như kiểu
"thật giả lẫn lộn"! Do vậy, điều rất nguy hiểm của phong trào
"cải biên, cải tiến" là sự lan tỏa, bắt rễ và tạo thành một trào lưu
trong xã hội. Một phong trào kiểu "người người cải biên, nhà nhà phát triển"
(nhà ở đây xin được hiểu là các đoàn nghệ
thuật, các nhà hát và các cơ sở giáo dục, đào tạo nghệ thuật dân tộc). Trong
mấy chục năm qua, khi "hiện đại hóa" nghệ thuật sân khấu, nhiều
"nhà cải biên" đã từng tranh cãi kịch liệt rằng tác phẩm của họ mới
là cổ truyền, còn của người khác là kịch pha ca(5)! Trong các cuộc
hội thảo, hội diễn nghệ thuật dân tộc cũng như trên báo chí, cuộc tranh cãi
"không ai thắng ai" đó rất phổ biến. Câu chuyện đó càng cho thấy rõ
sự sai lầm khi chúng ta lẫn lộn giữa hai nhiệm vụ bảo tồn và phát triển vốn cổ cha ông. Đó là một bài học lớn
trong quá khứ. Bởi vậy, đã đến lúc chúng ta cần hoạch định lại chính sách bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa nghệ thuật cổ
truyền theo các hướng chuyên biệt.
Mặt
khác, ở đây chúng tôi xin thử lật ngược vấn đề. Rằng nếu chúng ta không phát
triển (biến đổi về chất)
các giá trị nghệ thuật cổ truyền dân tộc thì sao? Hình như trên thế giới, đối
với các giá trị nghệ thuật cổ truyền của mỗi cộng đồng dân tộc, người ta không
chú trọng và đầu tư quá mức vào việc này, nhất là kiểu "loại bỏ, làm
mới" để "hiện đại hóa" như chúng ta đã thực thi. Chẳng hạn ở
những nước phát triển, người ta không hề có ý định cải biên các tác phẩm trong
kho tàng nghệ thuật cổ truyền như âm nhạc cổ điển châu Âu, Kinh kịch của Trung
Quốc hay Kịch Nô Nhật Bản..v.v.. Tất cả các tác phẩm đều được họ bảo tồn nguyên
vẹn với một hệ thống đồ sộ các nhà hát, đoàn nghệ thuật hay các nhạc viện.
Những di sản luôn được quảng bá và tôn vinh trong hệ thống giáo dục đại chúng.
Theo đó, mỗi loại hình đều duy trì được truyền
thống thưởng thức với
một lượng khán giả nhất định. Hơn thế nữa, sự quảng bá của họ không chỉ diễn ra
trong phạm vi mỗi quốc gia mà còn lan tỏa ra thế giới. Ví dụ, một sinh viên Mỹ
có thể học nhạc Cung đình Nhật Bản hay nhạc cổ truyền Ấn Độ, Trung quốc... tại
trường đại học ở Mỹ và sau đó đi biểu diễn khắp thế giới; Hay những ví dụ về sự
quảng bá âm nhạc cổ điển châu Âu là rõ hơn cả. Bởi Việt Nam là một trong những
nước góp phần bảo tồn và phát huy các tác phẩm của Đức, Nga, Pháp hay Ba lan
v.v… Đối với thế giới, trong thời đại ngày nay, các di sản nghệ thuật cổ truyền
của mỗi quốc gia đều được coi là tài sản chung của nhân loại. Và, bảo tồn nguyên vẹn các giá trị ấy được coi như nhiệm vụ
tất yếu của mỗi nước. Đó là một thực tế được công nhận. Như vậy, phải chăng mô
hình "phát triển, hiện đại hóa" các di sản nghệ thuật cổ truyền dân
tộc với hệ thống thiết chế đồng bộ như ở Việt Nam là "quá độc đáo"?
Trong
mỗi cộng đồng dân tộc, trên con đường phát triển, giao lưu văn hóa với thế giới
bên ngoài, việc tạo ra những sản phẩm quái dị, nhăng nhố là điều khó tránh
khỏi. Vốn liếng ngàn năm của tổ tiên thì hữu hạn. Vì vậy, có lẽ chúng ta không
nên mạo hiểm đem các giá trị đó ra để thử nghiệm bằng những "sáng
tạo" của "thời đại". Những "sáng tạo" mà trên thực tế
đã và đang là sự đục đẽo, lai ghép với Tây phương. Theo đó, chúng ta không nên
bao cấp toàn phần cho cho sự nghiệp sáng tạo, phát triển các giá trị nghệ thuật
cổ truyền. Trong nhiều chục năm qua, nhà nước đã rót quá nhiều tiền của vào
việc này. Hàng năm, mỗi đoàn nghệ thuật dân tộc (tuồng, chèo, cải lương, ca múa
nhạc dân tộc...) đều được đầu tư hàng trăm triệu đồng để tiếp tục dàn dựng
những tác phẩm "hiện đại". Đấy là điều hết sức lãng phí. Bởi trên
thực tế, các sáng tạo mới đó cũng thường "chết yểu" vì không có khán
giả. Chúng tôi thường nói vui rằng đằng nào Nhà nước cũng phải "nuôi
sống" các đoàn nghệ thuật dân tộc, vậy chi bằng hãy sử dụng đồng tiền một
cách hữu ích hơn! Thậm chí với những khó khăn về kinh tế hiện nay, nên chăng
chúng ta hãy "thanh lý" bớt những khoản đầu tư đó để dành nguồn lực
cho sự nghiệp bảo tồn. Với thực trạng hiện tại, đây là một sự nghiệp chắc chắn
đòi hỏi rất nhiều tiền của và sức lực của chúng ta. Mặt khác, cũng đã đến lúc
nên mở một cuộc tổng điều tra toàn bộ hệ thống các đoàn, các nhà hát và các
trường nghệ thuật âm nhạc, sân khấu để xem xét lại sự cân đối nói chung. Bởi so
với mô hình đặt định văn hóa nghệ thuật của các nước phát triển, chúng ta
"vừa thừa, vừa thiếu". Thừa cái gì thì chắc hẳn mọi người đều thấy
rõ. Còn chắc chắn là thiếu những trung tâm bảo
tồn thực thụ (chúng
tôi nhấn mạnh) các giá trị nghệ thuật âm nhạc, sân khấu cổ truyền dân tộc. Đây
là chuyện hết sức tế nhị song chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật!
Ngoài
ra, trong sự phát triển âm nhạc dân tộc, chúng ta không nên sử dụng khẩu hiệu
"hiện đại hóa" để tránh những lầm lẫn không đáng có. Đã đến lúc chúng
ta cần mở rộng tầm nhìn ra cộng đồng thế giới để xem lại cái gọi là giá trị
"mới, thời đại, quốc tế, hiện đại" mà chúng ta đã vươn tới trong sự
nghiệp phát triển nghệ thuật âm nhạc dân tộc ở nửa cuối thế kỷ XX. Bởi trên
thực tế, các giá trị "mới, hiện đại" mà chúng ta đạt được chủ yếu là
hệ thống các giá trị nghệ thuật cổ truyền của phương Tây. Có lẽ nào tình trạng
"cũ người - mới ta" trong lĩnh vực nghệ thuật lại là động lực cho sự
phát triển nền nghề thuật của chúng ta trong thế kỷ XXI?!
*
Kho
tàng âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam là một trong những tài sản vô giá của
dân tộc. Hiện nay trên thế giới, sự hiện diện một nền cổ nhạc với sự đa dạng về
chủng loại như ở Việt Nam là điều rất quý hiếm. Giá trị lịch sử quan trọng của
cổ nhạc Việt Nam chính là ở chỗ đó. Bảo tồn nó trong bối cảnh xã hội Việt Nam
đương đại là một trách nhiệm rất nặng nề của chúng ta. Trong quá trình thực
thi, để đạt được mục đích đã đề ra, vai trò chỉ đạo trực tiếp của các nhà
nghiên cứu là đặc biệt quan trọng trên từng đầu việc cụ thể. Sửa chữa những sai
lầm trong quá khứ để phục hưng những di sản của nền âm nhạc dân tộc cổ truyền
Việt Nam, điều đó tuy khó nhưng không phải là việc bất khả thi. Theo kinh
nghiệm bản thân tôi, tôi nhận thấy cái khó nhất là chúng ta cần phải thay đổi
quan niệm, thay đổi cách nhận thức về văn hóa - nghệ thuật cổ truyền dân tộc.
Cho đến nay, sự đầu tư nguồn lực giữa hai nhiệm vụ bảo tồn và phát triển âm
nhạc cổ truyền của chúng ta quá thiên lệch. Nhà nước còn nghèo, vì vậy cần thận
trọng khi đầu tư cho công cuộc phát triển (theo hướng biến đổi về chất). Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm
và có nhiều phần tế nhị!
Trong
cuộc sống của chúng ta, thói tự ti dân tộc vốn không phải là hiện tượng “hiếm
có, khó tìm”. Nó thường lẩn quất đâu đó ngay cạnh lòng tự tôn dân tộc. Nó như
một thói xấu vô hình, lúc ẩn lúc hiện trong mỗi con người. Nó thường chợt trỗi
dậy khi chúng ta bị “hoa mắt” trước các giá trị văn hóa - nghệ thuật nước
ngoài. Đặc biệt là khi các giá trị đó được gán cho cái mác “thế giới, quốc tế”
hay “thời đại, hiện đại”... Trong văn hóa, thói tự ti dân tộc đặc biệt nguy
hiểm vào lúc nó núp dưới cái bóng tự tôn dân tộc. Chẳng hạn, khi người ta muốn
học tập văn hóa nước ngoài để những mong “làm giàu thêm và nâng cao” văn hóa
dân tộc thì đấy chính là lúc người ta thường vô tình coi vốn liếng các giá trị
dân tộc cổ truyền là nghèo và thấp.
Bởi cái lẽ thường là nghèo thì mới phải làm giàu và thấp thì mới phải nâng cao. Tất nhiên, công cuộc “làm giàu
và nâng cao” theo lối bỏ cái của ta để lấy cái của họ chắc
chắn sẽ đánh mất dần các giá trị cổ truyền. Các khâu của một quá trình nghệ
thuật bao gồm: sáng tạo, phân phối, lưu
truyền và hưởng thụ sẽ biến đổi đến tận gốc rễ theo thời
gian.
Hiện
tại, nếu chỉ nhìn bề ngoài, người ta sẽ tưởng rằng Việt Nam vẫn còn “đủ thứ, đủ
loại, nào là Tuồng, Chèo, Cải lương, Quan họ, Hát văn, Ca trù, Ca Huế, Hát Xẩm,
Hát Xoan... cùng là hò vè các loại, có mất mát gì đâu. Thật ra, chỉ có bắt tay
vào điều tra, nghiên cứu, phân tích thì mới thực sự biết được rằng chúng ta đã
mất những gì, sắp mất những gì và chỉ còn những gì ở thời hiện tại! Bây giờ, đi
tìm lại nhiều giá trị cổ nhạc của một thời hoàng kim, các nhà nghiên cứu âm
nhạc dân tộc thường xuyên rơi vào tình trạng “mò kim đáy bể, biết tìm nơi đâu”.
Bởi các nghệ nhân lão thành đã vĩnh viễn mang theo những giá trị đó về bên kia
thế giới. Theo đó, thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay đã không còn cơ hội để hưởng thụ
rất nhiều giá trị nghệ thuật cổ truyền dân tộc. Những giá trị mà mới chỉ cách
đây khoảng 40 năm vẫn còn hiện hành trong đời sống nghệ thuật dân tộc. Những
giá trị mà ông cha ta đã dày công đúc kết từ ngàn xưa chứ không phải sáng tạo
trong một sớm một chiều. Giá mà người ta hiểu rằng nếu thế hệ trước không muốn
nghe, không muốn học thì hãy bảo tồn để cho các thế hệ sau tiếp nhận nó. Bởi
các giá trị nghệ thuật cổ truyền không phải là những thứ mà chúng ta có thể làm
sống lại khi cần!
Trong
thế kỷ XX, dù muốn nói gì đi chăng nữa thì tư tưởng phủ định các giá trị nghệ
thuật cổ truyền là phong kiến, lỗi thời, lạc
hậu... vẫn đồng nghĩa với thói tự ti dân tộc. Đó là điều không thể
chối cãi. Trên tầm vĩ mô, chúng ta đã và đang góp nhiều công của để lưu truyền
những giá trị nghệ thuật âm nhạc cổ điển châu Âu bằng hệ thống các nhạc viện
trong cả nước. Hơn thế, các tác phẩm đó được bảo tồn một cách nguyên vẹn mà
không hề bị cải biên. Như thế,ta đã làm giúphọ hai
nhiệm vụ quan trọng là bảo tồn và phát huy cũng như kế thừa và phát triển các
giá trị văn hóa nghệ thuật cổ truyền của họ.
Trong khi đó, chúng ta lại không có ý thứcbảo
tồn nguyên vẹn kho
tàng âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Đó là một điều hết sức phi lý. Liệu họ có
bỏ công sức, tiền của để học cho giống ta và làm hộ ta cái
việc mà ta đã làm giúp họ? Hơn nữa, mỗi người trong chúng ta
chắc hẳn ít ai để ý rằng đứng trên phương diệnvăn hóa - nghệ thuật, sự hội nhập của ta với họ trong
thế kỷ XX chủ yếu diễn ra theo một chiều yếu thế.Ta cố
gắng phấn đấu học tập các giá trị văn hóa - nghệ thuật của họ để
giốnghọ (tức hội nhập với họ) trong khi họ hình
như không làm như vậy!? Ở đây, theo quan điểm của chúng tôi, cái lớn nhất mà lẽ
ra ta nên học tập họ chính
là công cuộc bảo tồn và phát huy hệ thống các trị nghệ thuật cổ truyền dân tộc.
Sự trường tồn của các kho tàng văn hóa nghệ thuật cổ truyền của họ như
nền âm nhạc cổ điển châu Âu, Kinh kịch của Trung quốc, Nhạc Cung đình, Kịch Nô
của Nhật Bản, Nhạc Cung đình Triều Tiên v.v… là điều mà chúng ta nên suy ngẫm.
Bảo tồn nguyên vẹn kho tàng nghệ thuật cổ truyền Việt Nam - đó mới chính làsự hội nhập quan trọng với thế giới trong thời đại hiện nay.
Hơn nữa, với những bài học trong quá khứ, chúng ta cần tránh áp đặt khái niệm hiện đại hóa trong khoa học kỹ thuật vào văn hóa
nghệ thuật. Trong khoa học kỹ thuật, đúng là ta nênhiện đại hóa theo họ (tức giống họ).
Còn trong văn hóa- nghệ thuật thì khác hẳn. Đặc biệt là với kho tàng nghệ thuật
cổ truyền dân tộc, ta càng bảo tồn được nguyên vẹn bao nhiêu
thì càng tốt bấy nhiêu.
Bùi Trọng Hiền
Đã đăng trên Báo Nhân dân điện tử các ngày 15, 17 và
19.1.2007
_______________________
1. Xin xem Lê Hanh Thông - Nguyễn Lam Sơn,Suy nghĩ về chỗ đứng của Tuồng qua con mắt người xem,
tạp chí Sân khấu, số 3/1985.
2.Từ điển tiếng Việt,
NXBĐà Nẵng - TT Từ điển học, Hà
Nội - Đà Nẵng, 1997.
3. Xin xem Tô Ngọc Thanh, Chèo và Chèo cải tiến, tạp chíSân khấu, số 119/1990.
4.Từ điển tiếng Việt,
NXBĐà Nẵng - TT Từ điển học, Hà
Nội - Đà Nẵng, 1997.
5. Xin xem Đỗ Ngọc Thạch, Vấn đề kế thừa truyền thống để xây
dựng Tuồng hiện đại, tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 3/1983.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét